V. Tiến hành điều tra sơ khởi về cái chết của Thầy Giảng Anrê Phú Yên, tháng 12 năm 1644, tại Thành phố Macau
12. Biên Bản Nhân Chứng thứ Mười Bốn và Mười Lăm Về Cái Chết Của Thầy Giảng Anrê Phú Yên: Pero Pinto De Figueiredo và Domingos Martins
Tàu buôn Bồ Đào Nha. Nguồn : Internet
Sau khi điều tra 4 nhân chứng ngày 9 tháng 1, ngày 10 tháng Giêng năm 1645, anh Pero Pinto de Figueiredo, trùng họ với thầy Manuel de Figueiredo, trong ban chuyên án, được triệu tập. Anh vào khoảng 30 tuổi và sinh tại Nhật Bản. Anh khai: “đích thân có biết thầy Anrê, vào độ tuổi đã nêu, tức khoảng 19 hay 20 tuổi, nhân chứng đã nói chuyện nhiều lần với thầy Anrê. Thầy là người Kitô hữu đã chịu phép rửa, con của cha mẹ người Kitô hữu, từ lâu thầy đã là người phục vụ cha Alexandre Rhodes nhằm coi sóc mục vụ cho giới Kitô giáo ở đó.” Chính mắt anh: “đã nhìn thấy thầy Anrê bị trói, và nghe nói rằng thầy bị đánh bằng roi mây… thầy bị gửi đi giam ngục như tù nhân, (ngục) vốn là một căn nhà đặc biệt, trong đó còn có mặt những người khác, và cùng bị nhốt giam có một Anrê khác lớn tuổi.” Phải hiểu thế nào: nhà giam thầy không phải là nhà tù thực sự mà là “nhà đặc biệt” tức trại cưa ván như các nhân chứng khác mô tả. Chính anh đã tận mắt thấy việc nầy. Sau đó anh phải về Hội An giữ nhà và giữ hàng: “quả thật nhân chứng có mặt tại đó, thầy Anrê đã bị quan Tổng Trấn Ông Nghè Bộ của Kẻ Chàm kết án tử vì lý do là Kitô hữu, và vì đã dám can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu; và chính nhân chứng đã nhìn thấy thầy Anrê mãn nguyện và tuân phục theo Thánh Ý Chúa, chấp nhận cái chết vì đức tin thánh thiện của chúng ta, và vì Đạo thánh của Ngài. Và tất cả những điều ấy, nhân chứng đã tận mắt chứng kiến vì đã có mặt và đã nói chuyện với thầy Anrê trong tù nơi thầy bị giam giữ. Và vì sau đó chuyện xảy ra là nhân chứng phải quay về Hội An để trông coi nhà và những hàng hoá cùng với những người Bồ và Kitô hữu khác, nhưng nhân chứng đã nghe chính miệng những người Bồ.” Cũng như nhiều nhân chứng anh cho biết “ngay sau cái chết các Kitô hữu hiện diện đã thu lấy máu và thi thể thầy với lòng mộ mến. Và chính nhân chứng đã nghe từ miệng những người này kể lại rằng thi thể của thầy được những Kitô hữu bản địa trao cho cha Alexandre ngay vào buổi tối sau ngày hôm đó, họ đưa đi bằng một con đường quanh co để tránh đi ngang qua nhà quan; cha đưa thầy đến Hội An, ở đó thầy được đặt trong một áo quan, và ngài trao thầy lại cho thuyền trưởng João de Rezende.” Anh khai rõ chính xác ngày chết “cái chết xảy ra vào ngày 26 tháng 7 năm ngoái 1644.” Anh không nghi ngờ gì về sự thánh thiện và tinh thần tông đồ của thầy vì “thầy ước ao cho tất cả mọi người đồng bào mình đều là Kitô hữu. “
Ngoài ra anh còn thêm một chi tiết: “Chính nhân chứng đã nghe kể tại Nam Việt thầy Anrê đã hiện về và nói chuyện với một người mà nhân chứng không biết (là ai).”
NHÂN CHỨNG THỨ 14: Pero Pinto De Figueiredo
Ngày 10 tháng Giêng năm 1645, tại thành phố Danh Thiên Chúa tại Trung Hoa (Macao), tại nhiệm sở của Đức Cha tổng quyền Manoel Fernandes, tại điểm đã được chỉ định, nhân chứng Pero Pinto de Figueiredo xuất hiện. Anh khai mình khoảng 30 tuổi, sinh tại Nhật Bản, đã lập gia đình và trú quán tại thành phố này, là con của Martim de Gouvea và bà Maria Rodrigues. Anh là nhân chứng được thầy Manoel de Figueiredo chỉ định và được thư tín viên Natonio Rangel triệu tập. Đức Cha tổng quyền bảo anh thề trên Sách Phúc Âm, anh đặt tay phải trên Phúc Âm thề nói sự thật theo những gì anh biết và theo các câu hỏi sẽ được đặt ra. Trả lời câu hỏi năm nay anh có xưng tội không và mấy lần, nhân chứng trả lời đã xưng tội ở Nam Việt với cha Alexandre Rhodes Dòng Tên, và từ tay ngài, anh đã rước Thánh Thể vào mùa phục sinh. Trả lời câu hỏi có bao giờ anh đã bị dứt phép thông công không, nhân chứng trả lời rằng nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, chưa bao giờ anh bị dứt phép thông công. Khi được khuyên phải cân nhắc những gì anh sẽ nói, và tội thề gian là một tội rất nặng nề, nhân chứng trả lời rằng anh đã biết rõ rằng thề gian là một tội nặng nề; và vì lý do đó, anh chỉ nói những gì anh biết theo sự thật.
Câu hỏi thứ nhất
Nhân chứng trả lời rằng đích thân có biết thầy Anrê, vào độ tuổi đã nêu, tức khoảng 19 hay 20 tuổi, nhân chứng đã nói chuyện nhiều lần với thầy Anrê. Thầy là người Kitô hữu đã chịu phép rửa, con của cha mẹ người Kitô hữu, từ lâu thầy đã là người phục vụ cha Alexandre Rhodes nhằm coi sóc mục vụ cho giới Kitô giáo ở đó; vào tháng bảy năm vừa qua những người hành luật của xứ này đã bắt thầy ở Hội An, tại nhiệm sở là nơi cha vẫn thường cử hành Thánh Lễ, vì nhân chứng có mặt tại nên đã thấy tận mắt điều đó; rồi thầy Anrê bị áp giải về Kẻ Chàm ở đó thầy đã bị hành quyết, điều này là hiển nhiên rõ ràng và mọi người ai cũng biết, theo như nhân chứng đã nghe những người đã chứng kiến cái chết kể lại.
Câu hỏi thứ hai
Nhân chứng trả lời rằng có biết bởi đã nhìn thấy thầy Anrê bị trói, và nghe nói rằng thầy bị đánh bằng roi mây, và lý do là vì thầy là Kitô hữu và dạy Đạo Chúa Kitô; và sau đó thầy bị áp giải về Kẻ Chàm ra trình diện viên quan này, và trước mặt ông thầy đã can đảm tuyên xưng rằng thầy là Kitô hữu, và vì lý do này thầy sẵn sàng hiến mạng sống cho Chúa Kitô. Bởi vì lời tuyên bố này thầy bị gửi đi như tù nhân (để) giam ngục, vốn là một căn nhà đặc biệt, trong đó còn có mặt những người khác, và cùng bị nhốt giam có một Anrê khác lớn tuổi, bị bắt giam cũng vì cùng một lý do là Kitô hữu, quan lớn đã tha mạng cho ông bởi vì ông đã già và có gia đình; còn thầy Anrê thì vẫn bị giam giữ với cái gông trên vai trong chừng 24 tiếng đồng hồ, cho đến khi thầy bị áp giải đến nơi tử đạo; và chính nhân chứng đã nghe nói rằng khi quân lính đi bắt thầy Anrê, họ còn mang theo lệnh bắt giam các giáo lý viên khác và cả cha Alexandre Rhodes.
Câu hỏi thứ ba
Nhân chứng trả lời rằng đã tận mắt chứng kiến điều đó và quả thật nhân chứng có mặt tại đó, thầy Anrê đã bị quan Tổng Trấn Ông Nghè Bộ của Kẻ Chàm kết án tử vì lý do là Kitô hữu, và vì đã dám can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu; và chính nhân chứng đã nhìn thấy thầy Anrê mãn nguyện và tuân phục theo Thánh Ý Chúa, chấp nhận cái chết vì đức tin thánh thiện của chúng ta, và vì Đạo thánh của Ngài. Và tất cả những điều ấy, nhân chứng đã tận mắt chứng kiến vì đã có mặt và đã nói chuyện với thầy Anrê trong tù nơi thầy bị giam giữ. Và vì sau đó chuyện xảy ra là nhân chứng phải quay về Hội An để trông coi nhà và những hàng hoá cùng với những người Bồ và Kitô hữu khác, nhưng nhân chứng đã nghe chính miệng những người Bồ và những người Kitô hữu còn ở lại nói rằng thầy Anrê bị đưa đi với cái gông trên đôi vai, bị trói và áp giải bởi quân lính lý hình, cho đến một nơi hẻo lánh xa khu dân cư của Kẻ Chàm, ở đó thầy bị đâm bằng giáo và bị cắt cổ, đương khi đó thầy Anrê tiếp tục kêu danh Chúa Giêsu và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cho đến lúc chết; và trước đó thầy đã khích lệ các Kitô hữu có mặt tại đó hãy giữ vững đức tin. Và cái chết xảy ra vào ngày 26 tháng 7 năm ngoái 1644.
Câu hỏi thứ bốn
Nhân chứng trả lời rằng những người chứng kiến cái chết này là: João de Rezende, Francisco de Azevedo Teixeira, Agostinho da Silva, Domingos Martins, Antonio Fernandes, Antonio Pecanha, Horacio Massa, cha Alexandre Rhodes và những người khác; và ngay sau cái chết các Kitô hữu hiện diện đã thu lấy máu và thi thể thầy với lòng mộ mến. Và chính nhân chứng đã nghe từ miệng những người này kể lại rằng thi thể của thầy được những Kitô hữu bản địa trao cho cha Alexandre ngay vào buổi tối sau ngày hôm đó, họ đưa đi bằng một con đường quanh co để tránh đi ngang qua nhà quan; cha đưa thầy đến Hội An, ở đó thầy được đặt trong một áo quan, và ngài trao thầy lại cho thuyền trưởng João de Rezende, người này đưa thầy đến mãi thành phố Macao này, ở đây thầy được tiếp đón với lòng sùng kính, long trọng và đám đông dân chúng tuôn đến, thầy được trao cho cha Giám đốc Trường Trung học Nhà Dòng. Chính nhân chứng đã nhìn thấy những việc đó bởi vì trở về cùng một chuyến tàu mang theo thi thể thầy Anrê.
Câu hỏi thứ năm
Nhân chứng trả lời rằng đã nghe chính quan Ông Nghè Bộ tuyên bố rằng y theo lệnh vua mà ông giết chết những Kitô hữu thầy giảng đang ở đó, và nhà vua không muốn có những Kitô hữu hiện diện trên vương quốc của ông; và chính vì lý do đó vào lúc bắt thầy Anrê, các thuộc hạ của ông đã tịch thu những hình ảnh và đồ thánh mà họ tìm thấy trong ngôi nhà đó; và vào cùng một dịp đó, chính quan Ông Nghè Bộ đã lưu ý với cha Alexandre Rhodes rằng ngài phải quay trở về Macao và không được lưu lại ở đây, không được miệt mài làm cho người ta theo Kitô giáo nữa, bởi đó là mệnh lệnh của nhà vua; và ngài chỉ có thể đến và đi theo các thương thuyền Kitô hữu Bồ trên cùng một chuyến đến Nam Việt này.
Câu hỏi thứ sáu
Nhân chứng trả lời rằng thầy Anrê đã bị hành quyết chỉ vì thầy là Kitô hữu và vì thầy tuyên xưng đạo Chúa Kitô, chứ không phải vì một tội ác nào khác thầy đã phạm.
Câu hỏi thứ bảy
Nhân chứng trả lời rằng sự kiện hiển nhiên và ai cũng biết là thầy Anrê luôn có những nhân đức đó; và qua cái chết, thầy đã đưa ra bằng chứng hiển nhiên, bởi thầy đã hiến dâng mạng sống vì Chúa Kitô và vì tình yêu dành cho Ngài, vì đức tin với đức cậy trông đạt tới đời sống vĩnh hằng. Chính nhân chứng đã nghe từ miệng cha Alexandre Rhodes nói rằng thầy Anrê siêng năng lãnh nhận các bí tích Sám Hối và Thánh Thể, nhiệt thành vì vinh danh Chúa và việc phụng thờ Thiên Chúa; và thầy ước ao cho tất cả mọi người đồng bào mình đều là Kitô hữu.
Câu hỏi thứ tám
Nhân chứng trả lời rằng thầy Anrê được dân Kitô giáo ở thành này cũng như ở Nam Việt coi là vị thánh tử đạo đích thực. Và chính nhân chứng biết rằng nhiều người Kitô hữu thành này có vài thánh tích của thầy và họ cẩn thận gìn giữ những thánh tích này với lòng mộ mến. Chính nhân chứng đã nghe kể tại Nam Việt thầy Anrê đã hiện về và nói chuyện với một người nào đó mà nhân chứng không biết (tên). Nhân chứng không nói gì thêm.
Và chứng từ này được đọc lại từng từ cho nhân chứng nghe, nhân chứng tuyên bố chứng từ được viết theo đúng sự thật và nhân chứng không có gì để thêm vào hay bớt đi nhưng chấp nhận là chứng từ của mình và xác nhận điều đó; nhân chứng ký tên mình cùng với Đức Cha tổng quyền, và tôi, cha Antonio da Silva, thư ký Pháp lý toà giám mục và công chứng viên chính của vụ án này, là người chép bản chứng từ. Ký tên: Pero Pinto de Figueiredo, Manoel Fernandes, tổng quyền. Cha Antonio da Silva.
Thủy chiến giữa tàu Hà Lan và các nước. Nguồn : Internet.
Nếu anh Pero (Phêrô) sinh tại Nhật Bản thì anh Domingos Martins, nhân chứng thứ 15, chào đời ở Cochim (tiếng Bồ Đào Nha), tức Cochin, Tây Nam An Độ. Để tránh hiểu lầm địa điểm Cochin ở India (Ấn Độ) với Coci (Giao Chỉ) cạnh nước Trung Hoa, thủy thủ đã tạo ra từ Cocin – Cina tức Giao Chỉ (Coci) bên Trung Quốc, gọi tên nước Đại Việt. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Cocincina chỉ Đàng Trong, phân biệt với Tonkin (Đông Kinh) Đàng Ngoài.
“Nguyên quán Tây Nam Ấn Độ”, anh 30 tuổi… Anh thành thật khai: “nhân chứng không nhớ việc ấy xảy ra vào ngày nào và tháng nào, nhưng chỉ biết rằng vào năm 1644, vào lúc những người Bồ đang chuẩn bị quay trở về thành” phố Macau.
Anh cũng thêm chi tiết về việc cướp biển Hà Lan tấn công thuyền Bồ Đào Nha nhưng nhờ sự phù hộ của Á thánh đoàn tàu không bị hề hấn: “nhân chứng khai rằng nhờ và công trạng của cuộc tử đạo này mà chuyến thuyền mang thi thể thầy trên đó đã có một cuộc hải trình tốt đẹp từ Nam Việt đến thành phố nầy (Macau) đã tránh được quân Hoà Lan, những kẻ đã chiếm một chiếc thuyền khác của người Bồ Đào Nha từ Pilimbão (Philippine) về.”
Lịch sử cũng chứng minh điều nầy. Vào thời đó, nước Hà Lan đã trở thành một cường quốc hải quân. Chiến thuyền của họ tung hoành trên Thái Bình Dương, họ tấn công Malacca, Macau và tổ chức cướp bóc các thương thuyền Bồ Đào Nha và các nước khác, kể cả của Đàng Trong. Chính vào mùa hè năm 1644, năm thầy Anrê bị Ông Nghè Bộ hành quyết, Dũng Lễ Hầu Nguyễn Phúc Tần, là Thế tử của Chúa Nguyễn Phúc Lan, khi nghe tin tàu Ô Lan (Hà Lan) cướp bóc ngoài biển, đã bất tuân lệnh cha, phát xuất từ Bến Vân Đông (Dinh trấn Thanh Chiêm) dong thuyền ra khơi. Hai đội quân gặp nhau tại Cửa Eo (ngoài khơi cửa Thuận An). Quân Ô Lan bỏ chạy, nhưng tàu lớn do Đô đốc Peter Back chỉ huy, nặng nề theo không kịp. Thủy quân của Dũng Lễ hầu bao vây và tấn công, Peter Back buộc phải nổ kho thuốc súng và chết chìm cùng với hàng trăm thủy thủ (Xem Đại Nam Thực Lục. Tập Một. Tiền Biên, quyển 3. Nhà Xuất bản Giáo dục 2002, trang 55, 56).
Nhân chứng Domingos có một kỷ vật “cũng có một mảnh chiếc áo dài của thầy” Anrê.
LỜI KHAI CỦA NHÂN CHỨNG THỨ MƯỜI LĂM: Domingos Martins
Cùng ngày, tháng, năm và địa điểm trên, nhân chứng Domingos Martins có mặt. Nguyên quán Tây Nam Ấn Độ, là con của Sebastião Goncalves và bà Paula Martins, đã lập gia đình và trú quán tại thành này; nhân chứng khai khoảng chừng 30 tuổi, anh là nhân chứng được thầy Manoel de Figueiredo chỉ định và được thư tín viên Antonio Rangel triệu tập. Đức Cha tổng quyền cho nhân chứng thề trên Sách Phúc Âm, anh đặt tay phải trên Sách Phúc Âm và thề nói sự thật theo những gì anh biết và theo những câu hỏi được đặt ra. Trả lời câu hỏi năm nay anh có xưng tội không, và xưng tội mấy lần, nhân chứng trả lời đã xưng tội năm lần từ khi ở Nam Việt trở về, và lần mới đây nhất là với một cha Dòng Tên mà nhân chứng không biết tên, cũng trong nhà thờ đó, anh đã rước Thánh Thể. Trả lời câu hỏi có bao giờ anh bị dứt phép thông công chưa, nhân chứng trả lời rằng nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa anh chưa bao giờ bị dứt phép thông công. Với lời khuyến cáo hãy suy xét cẩn thận vì tội thề gian là một tội nặng nề, nhân chứng trả lời rằng anh đã biết rõ thề gian là một trọng tội.
Câu hỏi thứ nhất
Nhân chứng trả lời rằng có nghe quần chúng ở Nam Việt nói rằng thầy Anrê vào tuổi đó, làm thầy giảng phục vụ cha Alexandre Rhodes trong việc chăm sóc mục vụ cho giới Kitô giáo ở đó, và chính tại nhà của ngài ở Hội An, thầy đã bị bắt, và sau đó bị giải về Kẻ Chàm, và vì can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu, thầy bị giam một ngày tròn và sau đó bị hành quyết.
Câu hỏi thứ hai
Về mục này nhân chứng trả lời rằng không biết gì khác, trừ một điều hiển nhiên và tất cả những người Bồ và Kitô hữu có mặt tại đó Nam Việt, ai cũng biết rõ rằng thầy Anrê bị bắt bởi vì thầy là Kitô hữu, rồi bị giải đi Kẻ Chàm, và vì can đảm tuyên xưng rằng thầy là Kitô hữu nên thầy đã bị giam suốt một ngày và sau đó bị hành quyết.
Câu hỏi thứ ba
Nhân chứng tra lời rằng điều hiển nhiên và mọi người ai cũng biết là thầy Anrê đã bị giết chết vì thầy là Kitô hữu và tuyên xưng đạo Chúa Kitô cách can đảm, và triều đình nhà vua xứ này đã tuyên án tử hình; thầy bị đâm bằng những nhát giáo và bị cắt cổ cách công khai; nhưng chính nhân chứng không nhớ việc ấy xảy ra vào ngày nào và tháng nào, nhưng chỉ biết rằng vào năm 1644, vào lúc những người Bồ đang chuẩn bị quay trở về thành này; đó là điều hiển nhiên và ai cũng biết.
Câu hỏi thứ tư
Nhân chứng trả lời rằng có nghe nói và kể lại từ miệng những người Bồ và các Kitô hữu là có João de Rezende, Francisco de Azevedo, Antonio Pecanha và cha Alexandre Rhodes, cũng như những người khác đã chứng kiến cái chết này, và họ đã thu lấy máu và thi thể với lòng sùng mộ, và thầy được đưa đi trong chuyến thuyền của João de Rezende đến tận thành Macau, ở đó thầy được tiếp đón với lòng sùng kính và trang trọng, và được trao lại cho cha Giám đốc Dòng Tên, vì điều này là hiển nhiên và mọi người ai cũng biết.
Câu hỏi thứ năm
Nhân chứng trả lời rằng đã nghe mọi người nói cách công khai rằng thầy đã bị giết chết bởi vị quan đã nói, vì theo mệnh lệnh nhà vua phải giết chết các thầy giảng và những người khác đang miệt mài làm cho người ta trở thành Kitô hữu trong vương quốc của ông; và việc những thần dân của ông theo Kitô giáo là nghịch là ý chỉ của nhà vua; và nhân chứng không nói gì hơn nữa về mục này.
Câu hỏi thứ sáu
Nhân chứng trả lời rằng điều hiển nhiên và ai cũng biết là thầy Anrê đã bị hành quyết vì thầy là Kitô hữu chứ không phải vì bất cứ tội ác nào khác mà thầy đã phạm.
Câu hỏi thứ bảy
Nhân chứng trả lời rằng không biết gì, nhưng một điều chắc chắn là thầy Anrê đã chết vì Chúa Kitô, nên thầy phải có những nhân đức đó.
Câu hỏi thứ tám
Nhân chứng trả lời rằng dư luận quần chúng và mọi người đều biết rằng thầy là một vị thánh tử đạo thực sự; và do đó mà những thánh tích của thầy được trân trọng, và chính nhân chứng cũng coi thầy là thánh tử đạo, và cũng có một mảnh chiếc áo dài của thầy; và thi thể thầy được đặt tại Học viện của Dòng Tên trong thành này, được tôn kính như vị thánh tử đạo. Và nhân chứng khai rằng nhờ và công trạng của cuộc tử đạo này mà thuyền mang thi thể thầy trên đó, đã có một cuộc hải trình tốt đẹp từ Nam Việt đến thành phố nầy, tránh được quân Hà Lan, những kẻ đã chiếm một thuyền khác của người Bồ từ Palimbão (Philippine) về. Và nhân chứng không nói gì thêm.
Và chứng từ này được đọc lại từng chữ một cho nhân chứng nghe, thầy tuyên bố chứng từ này được viết theo đúng sự thật và anh không có gì để thêm vào hay bớt đi, nhưng chứng nhận là chứng từ của mình và xác nhận điều đó; anh ký tên cùng với Đức Cha tổng quyền, và với tôi, cha Antonio da Silva, thư ký tư pháp của toà giám mục và là công chứng viên chính thức của vụ án này, là người đã chép chứng thư này. Ký tên Domingos Martins. Manoel Fernandes, tổng quyền. Cha Antonio da Silva.
nguồn: blog cố Lm. Antôn Nguyễn Trường Thăng, antontruongthang.com, với sự trau chút của chúng tôi cùng với cha Antôn khi ngài còn sống