V. Tiến hành điều tra sơ khởi về cái chết của Thầy Giảng Anrê Phú Yên, tháng 12 năm 1644, tại Thành phố Macau
16. Biên Bản Nhân Chứng Thứ Mười Chín Về Cái Chết Của Thầy Giảng Anrê Phú Yên: Onofre Borges
Onofre Borges là ai? Ngài là một linh mục tu sĩ Dòng Tên. Theo linh mục Đỗ Quang Chính, tên ngài có nhiều cách viết : Onofer,Onuphre, Onofrius Burgi, sinh năm 1608 tại Luzern, Thụy Sĩ, gia nhập Dòng tên năm 1630, năm 1640 đi An Độ, đến Macau 1640, đến Đàng Ngoài năm 1642. Sau hơn 20 năm sống tại Đàng Ngoài, ngài thông thạo tiếng Việt và viết một số sách tiếng Việt bằng chữ Nôm. Theo cha Đỗ Quang Chính thì trong số các tác phẩm chữ Nôm mà linh mục Francois Deydier MEP đưa về Au Châu không chỉ có sách của Majorica mà có thể trong đó có sách của cha Borges biên soạn.Ngày 12 tháng 11 năm 1663, hai linh mục Tissanier và Borges bị Chúa Trịnh Tạc trục xuất khỏi xứ Bắc trên một chiếc tàu Hà Lan và sau đó qua đời tại Batavia ngày 18-1-1664, ngày kỹ niệm Dòng Tên đến Đàng Trong.(18-1-1615). Trước đó linh mục Borges được Chúa Trịnh Tạc yêu quí vì ngài “nhập gia tùy tục” chẳng hạn ngày mồng một Tết, ngài vái Trịnh Tạc và Mẹ Ngài bốn vái sát đất, làm Chúa rất vui lòng. Nhưng nếu linh mục Borges sống ở Đàng Ngoài từ sau năm 1642, thì tại sao lại được triệu tập vào tháng giêng năm 1645 ? Theo linh mục Roland Jacques OMI “có lẽ ngài trải qua một thời gian ngắn ở Đàng Ngoài vào năm 1642, năm 1648 ngài là Bề Trên vùng truyền giáo nầy”. Như vậy phải hiểu là sau năm 1642 ngài lại trở về Macau lo việc thư tín trong Dòng nhờ đó mới biết tường tận cái chết của thầy Anrê. Chính vì thế mà đã được mời làm chứng. Ngài cho biết : “thông qua bản tường trình mà cha Alexandre Rhodes đã gởi về từ Nam Việt, và qua những bức thư khác cũng như những câu chuyện đặc biệt; và qua một số người có thường trú tại thành phố Macao này kể lại, họ là những người có mặt ở Nam Việt vào dịp đó..”, không ai mà không biết nhất là với một chuyên viên như ngài, dù rằng ngài không đi Đàng Trong cũng “không biết nhà giam ở tại địa điểm nào”.

Thành phố Luzern xinh đẹp Thụy Sĩ, quê hương của linh mục Onofre Borges. Trên chiếc cầu Peters-Kapelle (Cầu nhà nguyện thánh Phêrô) xây dựng vào giữa thế kỷ 14 nầy, bao lần chàng trai đã mơ mộng lên đường truyền giáo”vì danh Chúa cả sáng hơn”. Và chàng đã ra đi không hẹn ngày về. Chàng đã chọn Đàng Ngoài như quê hương và đã sống nơi đó hơn 20 năm. Anh: nguồn Internet.
Linh mục Borges đã tổng hợp được nhiều tin tức từ cha Alexandre de Rhodes đến các người Bồ Đào Nha hiện diện tại Hội An, Thanh Chiêm trong thời điểm thầy Anrê bị hành quyết, nên biên bản của ngài có thể gọi là một bản tổng hợp tin tức liên quan đến vụ án. Tuy không tận mắt chứng kiến nhưng từ lý do đưa đến cái chết đến những chi tiết nhỏ như chết vào lúc mặt trời lặn “giờ của cỏi âm” theo quan niệm Á Đông cũng được nêu ra đầy đũ “quan Ông Nghè Bộ… xử vì lý do thầy theo đạo Kitô và vì thầy dám can đảm tuyên xưng Đạo ấy trước mặt quan; về sự việc này chính quan đã nói rằng vì thầy quá khẳng khái trả lời mình là Kitô hữu. Quan nói thêm rằng nếu thầy nói thầy ở trong nhà ông Cha vì nghèo đói và để kiếm bác cơm, thì ông sẽ tha mạng cho., nhưng vì cái kiểu trả lời đó, thầy đáng phải chết. Thầy Anrê đã vui lòng chấp nhận cái chết này với khuôn mặt vui tươi và trong nhà giam thầy đã trách sao mặt trời không chóng lặn để bước vào thời điểm bản án sẽ được thi hành; bởi theo thói tục của nước này, tội phạm thụ án sau khi mặt trời lặn. Và khi thầy bị giải đi công khai từ nhà giam “
Về cuộc hành hình : tên đao phủ “cầm giáo đâm thầy một mũi sâu vào cạnh sườn trái và rồi lại đâm tiếp phát nữa, ông đã khiến thầy ngã xuống đất, và một người lính khác trang bị mã tấu chặt đứt cổ thầy; và chứng nhân có thể nhận thấy tên Chúa Giêsu được kêu ba lần qua hơi thở, với màu trào ra qua vết thương nói trên. Và tất cả việc nầy đều công khai tỏ tường và mọi người đều biết. Và cái chết trên xảy ra ngày 26 tháng 7 năm (một ngàn) sáu trăm bốn mươi bốn.”
Việc đưa xác về Hội An cũng như những các chi tiết khâm liệm cũng được ghi rõ, linh mục Alexandre de Rhodes “cùng các giáo dân thuộc nhà mình đang chờ đợi trên một bải cát và mang về Fayfo (Hội An); và một giáo hữu tên là Antonio, vừa mới trở lại đạo, đã tặng một chiếc áo dài rất cao giá để làm áo tang cho thể xác; còn về quan tài thì các tín hữu khác cũng dâng tặng để đặt xác vào, vật nầy cũng có giá trị.”
Tại Macau, Ngài biết rõ nơi để xác thầy Anrê và nhiều người đến đó cầu nguyện. Trong số đó chắc chắn có cha Borges, nhất là trước chuyến trở lại Đàng Ngoài, nơi ngài sẽ làm việc lâu năm. Ngài phải lìa xa đoàn chiên vào ngày 12 tháng 11 năm 1663. Một cuộc chia ly đau đớn cho cả giáo đoàn miền Bắc cũng như chính bản thân. Qua các thư tín sau đó, Chúa Trịnh và giáo đoàn nầy luôn mong ngài trở lại, nhưng ý Chúa nhiệm mầu, ngài kiệt sức và qua đời trên đất Nam Dương chỉ hai tháng sau đó 15-1-1664. Có thể suy đoán là sau chuyến hải hành lâu ngày, vừa lên bờ là ngài suy sụp và chết sau đó không lâu.
Ngày 12 tháng Giêng năm 1645, tại thành phố mang Danh Thiên Chúa ở Trung Hoa, trong nhiệm sở của Đức Cha tổng quyền Manoel Fernandes, phòng thứ hai. Nhân chứng là linh mục Onofre Borges có mặt, cha là tu sỹ đã tuyên khấn của Dòng Tên, là linh mục quốc tịch Thụy sĩ, nguyên quán thành Lucerne, con của Onufrio Burgin và bà Conegunde Tut, cha là nhân chứng được thầy Manoel de Figueiredo chỉ định và được thư tín Antonio Rangel triệu tập. Đức Cha Tổng quyền cho cha thề trên Sách Phúc Âm, cha đặt tay trên ngực và thề nói sự thật theo những điều cha biết và theo những câu hỏi đặt ra. Trả lời câu hỏi có bao giờ cha đã bị tuyên bố dứt phép thông công không, cha trả lời rằng nhờ lòng thương xót Thiên Chúa, cha chưa bao giờ bị dứt phép thông công, và cha vẫn cử hành thánh lễ hằng ngày, trước khi được cảnh báo cho biết tính nghiêm trọng của tội thề gian, cha nói đã hiểu rõ tính nghiêm trọng của tội thề gian, và cha sẽ nói những gì cha biết về vấn đề này.
Câu hỏi thứ nhất:
Cha trả lời rằng nội dung của mục này, cha có biết thông qua bản tường trình mà cha Alexandre Rhodes đã gởi về từ Nam Việt, và qua những bức thư khác cũng như những câu chuyện đặc biệt; và qua một số người có thường trú tại thành phố Macao này kể lại, họ là những người có mặt ở Nam Việt vào dịp đó, và điều này là hiển nhiên trong công luận và ai cũng biết.
Câu hỏi thứ hai:
Nhân chứng trả lời rằng đã đọc thấy trong bản phúc trình và đã nghe từ miệng nhiều người nói trên, kể rằng thầy Anrê đã bị trói và bị đánh đập vì lý do thầy là Kitô hữu dạy đạo Chúa Kitô. Và đạo mà thầy đã can đảm tuyên xưng trước quan Ông Nghè Bộ. Họ nói thầy ở trong nhà cha Alexandre Rhodes bởi vì thầy là Kitô hữu và để được học nhiều hơn đạo Đức Chúa Trời. Vì lý do đó thầy bị giam giữ trong một nhà giam với cái gông trên vai trong suốt một ngày dài, với một Anrê khác, một người đã có tuổi, người ta đã tha cho ông này tội chết; ông cũng bị bắt vì ông là Kitô hữu. Nhưng nhân chứng không biết nhà giam ở tại địa điểm nào. Và nhân chứng cũng đã nghe nói và biết qua báo cáo là những người hành pháp còn mang theo cả lệnh bắt giam những thầy giảng khác đang nhiệt tâm giảng dạy Đạo Chúa và làm cho người ta trở thành Kitô hữu; và vì người ta không tìm thấy họ trong ngôi nhà đó nên đã không bắt giữ họ. Và tất cả những điều này đều là dư luận rõ ràng và ai cũng biết vậy.
Câu hỏi thứ ba:
Nhân chứng trả lời có biết qua báo cáo rằng bản án tử hình thầy Anrê đã được quan Ông Nghè Bộ, một chức quan tổng trấn dưới quyền Thái Báu, xử vì lý do thầy theo đạo Kitô và vì thầy dám can đảm tuyên xưng Đạo ấy trước mặt quan; về sự việc này chính quan đã nói rằng vì thầy quá khẳng khái trả lời mình là Kitô hữu. Quan nói thêm rằng nếu thầy nói thầy ở trong nhà ông Cha vì nghèo đói và để kiếm bác cơm, thì ông sẽ tha mạng cho., nhưng vì cái kiểu trả lời đó, thầy đáng phải chết. Thầy Anrê đã vui lòng chấp nhận cái chết này với khuôn mặt vui tươi và trong nhà giam thầy đã trách sao mặt trời không chóng lặn để bước vào thời điểm bản án sẽ được thi hành; bởi theo thói tục của nước này, tội phạm thụ án sau khi mặt trời lặn. Và khi thầy bị giải đi công khai từ nhà giam đến chốn pháp trường giữa số đông quân lính với vũ khí trong tay, thầy đã rảo bước thật nhanh, như một người ra đi với lòng khát khao hiến dâng mạng sống cho Chúa Kitô, và khi thầy đến nơi pháp trường, hơi cách xa chỗ dân cư Kẻ Chàm, người ta tháo gông cổ cho thầy, vì thầy đã phải mang gông mà đi, và vẫn ở tư thế bị trói, thầy quỳ gối xuống để đón nhận cái chết, trong khi đó thầy uỷ lạo tinh thần các Kitô hữu đang có mặt ở đó, đang vây quanh thầy, hãy trung thành với Thiên Chúa, Chúa chúng ta và đừng bao giờ quay lưng lại với đức tin mà họ đã tuyên xưng vì nhìn thấy thầy bị giết chết. Trong tư thế đó, và khi mắt đang hướng nhìn về trời, thầy không ngừng kêu tên Chúa Giêsu, và nói rằng thầy muốn giữ tình bạn và ân sủng của Chúa Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng, lúc đó một tên lính, tay cầm giáo đâm thầy một mũi sâu vào cạnh sườn trái và rồi lại đâm tiếp phát nữa, ông đã khiến thầy ngã xuống đất, và một người lính khác trang bị mã tấu chặt đứt cổ thầy; và chứng nhân có thể nhận thấy tên Chúa Giêsu được kêu ba lần qua hơi thở, với màu trào ra qua vết thương nói trên. Và tất cả việc nầy đều công khai tỏ tường và mọi người đều biết. Và cái chết trên xảy ra ngày 26 tháng 7 năm (một ngàn) sáu trăm bốn mươi bốn.
Câu hỏi thứ 4:
Cha trả lời là ông đã nghe (mọi người) đồng thanh như thế cũng như qua bản tường trình mà mình đã đọc và João de Resende và Francisco de Azevedo, cùng với cha Alexandre de Rhodes và Horacio Massa người xứ Gênôva, đã là nhân chứng về cái chết nói trên.

“Một phụ nữ Đàng Trong đã thấy Anrê trong đêm sau khi chết trên không trung và như đang sống“ Lời khai cha Borges. Ảnh: Trường Thăng.
Câu hỏi thứ năm:Với các người khác nữa, và là (những người) sau đó đã thu lấy máu và và các di vật áo dài và các y phục đẩm máu. Và trong đêm (tiếp theo) ngày đó, giáo dân Đàng Trong đã chuyển xác của vị tử đạo nói trên, qua những con đường quanh co (tránh) nhà quan Tổng trấn, để trao cho cha Alexandre de Rhodes đã nói, vị nầy, cùng các giáo dân thuộc nhà mình đang chờ đợi trên một bải cát và mang về Fayfo (Hội An); và một giáo hữu tên là Antonio, vừa mới trở lại đạo, đã tặng một chiếc áo dài rất cao giá để làm áo tang cho thể xác; còn về quan tài thì các tín hữu khác cũng dâng tặng để đặt xác vào, vật nầy cũng có giá trị, và ở Hội An, linh mục nói trên (de Rhodes) đã giao cho thuyền trưởng tàu Thánh Gioan Baotixita, gọi là João de Resende ; vị nầy mang (quan tài) về thành nầy (Macau) và đã được đón rước trọng thể, thành kính và ảnh hưởng lớn đến dân chúng như chính nhân chứng đã mục kích; và rồi trao cho cha Viện trưởng Dòng Tên, Gaspar de Amaral. Và việc nầy rõ ràng công khai và ai ai cũng biết.
Linh mục trã lời là việc nầy (Ong nghè bộ lên án tử) là rõ ràng công khai và ai cũng rõ., và cha biết qua các bảng tường trình mà mình đã đọc, không chỉ (bản) năm nay mà cả những bản các năm về trước, rằng ông vua kể trên đã ra lệnh không được tạo lập đạo Ki tô trên những vùng đất nầy, và ở đó cũng không được hiện diện Ki tô hữu, (sẽ) bị án tử ; chính vì điều đó mà vị quan Ong nghè bộ đã ra lệnh giết chết thầy gọi là Anrê vì thù ghét đức tin, cũng vì thế và cũng do chính ông ta mà ông vua nọ nghĩ về đạo giáo Kitô; và về đề tài nầy các bản tường trình kể lại rằng khi quân lính và những kẻ thi hành công lý đã bắt thầy Anrê kia, họ đã lấy nhiều tượng ảnh và một thánh giá, cũng như nhiều y phục thánh và một chén thánh, và tất cả việc nầy, ông quan sau đó đã trả lại cho cha Alexandre de Rhodes. Ong đã lưu ý và tuyên bố cho người nầy là phải trở về Macau, và không được ở lại Đàng Trong làm việc tạo nên Ki tô hữu, vì đó là mệnh lệnh và ý muốn của nhà vua ông ; và linh mục chỉ được phép đi lại trên cùng một chiếc tàu mà người Bồ Đào Nha du hành; và điều ấy cũng rõ ràng công khai và ai cũng biết.
Câu hỏi thứ sáu:
Linh mục trã lời rằng việc đó rút từ các các bản tường trình, điều rõ ràng công khai và ai cũng biết là thầy bị giết chết chỉ vì (lý do) là ki tô hữu, và do thù ghét đức tin, chứ không phải do tội ác nào đã phạm phải. Và quả là như vậy mà Ong nghè bộ công khai tuyên bố cho những người Bồ Đào Nha hiện diện nơi đó.
Câu hỏi thứ bảy:
Linh mục trã lời là (hình phạt) tử hình mà thầy phải chịu vì Chúa Ki tô và cho đức tin là bằng chứng cho thấy thầy đã có (đức tin) ấy, cùng với một tình yêu lớn lao đối với Thiên Chúa, và đức cậy trông mong được cuộc sống đời đời; và linh mục đã nghe, qua các câu chuyện kể là thầy Anrê đạo đức, và nhiệt thành vì vinh quang Chúa và việc thờ phượng thánh thiện, kiên trì trong nhiệm tích Giải tội và Thánh thể, và điều nầy cũng rõ ràng công khai và ai cũng biết rõ. Và vào ngày bị bắt, là ngày lễ thánh Giacôbê, thầy đã xưng tội và đã rước lễ, và khi bị bắt, thầy đã yêu cầu những kẻ thi hành luật pháp để thầy được xếp đặt đồ thánh và sau đó họ có thể trói thầy, thực tế họ đã làm như vậy.
Câu hỏi thứ tám:
Linh mục trã lời rằng thầy gọi là Anrê được coi như là một vị tử đạo chân chính và được xác tín như vậy bởi toàn thể tu sĩ Dòng Chúa Giêsu, và cũng một cách thức như vậy bởi các giáo hữu khác ỡ Đàng Trong; và các dấu tích của thầy được tìm kiếm, quý trọng giữ gìn, và thân xác thầy được đặt trong một sàn đài quay vào nhà thờ. Nơi được giữ gìn bí mật và xứng hợp, được đặt trong một quan tài, và nơi đó được tôn kính như một vị tử đạo. Và nhiều tu sĩ đã đến đó cách bí mật để tôn sùng thầy cách riêng. Và chính chứng nhân cũng nghe qua tường thuật từ xứ Đàng Trong là đã xảy ra hỏa hoạn tại địa điểm Kẻ Chàm, và ở chính nơi mà thầy Anrê bị giam giữ và rằng nhiều ngôi nhà đã làm mồi cho lửa, chúng bị thiêu hủy vì là nhà tranh và tại suốt đoạn đường mà vị tử đạo bị dẩn đi; nhưng lửa lại tránh không thiêu ngôi nhà của ông quan ngoại giáo là người đã van nài vị tử đạo, và ngôi nhà đó tồn tại (vì) lửa không đụng đến, như một hòn đảo giữa các ngôi nhà cháy. Và trước các biến cố nầy, một phụ nữ Đàng Trong đã thầy Anrê trong đêm sau khi chết trên không (trung) và sống động. Và (nhân chứng) không nói gì thêm.Và sau khi lời chứng trên đây được đọc từng chữ một, linh mục tuyên bố là nó đã được viết đúng sự thật, và cha cho rằng không cần thêm hay cắt bỏ điều gì, và cha xác quyết là của mình và ký nhận. Và cha ký tên mình cùng với Linh mục Tổng quyền, và với tôi, linh mục Antonio de Silva, thư ký chưởng ấn của Tòa giám mục nầy và là lục sự chính thức của vụ án, người đã ghi thành văn bản. Onofro Borges. Manuel Fernandes, Tổng đốc. Cha Antonio de Silva.
nguồn: blog cố Lm. Antôn Nguyễn Trường Thăng, antontruongthang.com, với sự trau chút của chúng tôi cùng với cha Antôn khi ngài còn sống